Lăng Minh Mạng triều Nguyễn

Thứ Tư, 6 tháng 6, 2012
http://nguyentl.free.fr/autrefois/centre/hue_tombeau_minh_mang.jpg

Tháng 2 năm 1820 vua Gia Long băng hà, hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm được đưa lên ngai vàng, lấy niên hiệu là Minh Mạng. Vua Minh Mạng là người có nhiều đóng góp đối với công việc mở mang đất nước, đưa nước Đại Nam lên hàng mạnh nhất trong các quốc gia Đông Nam Á lúc bấy giờ.

  
Làm vua được 7 năm, Minh Mạng cho người đi tìm đất để xây dựngSơn lăng cho mình. Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốtở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồnTả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng. Nhưng phảiròng rã 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết địnhcho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này. Nhà vua cho đổi tên núi CẩmKê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lănglà Hiếu Lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế docác quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu Lăng bắt đầu.
Vua sai cácquan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính vàthợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, Minh Mạng lênkiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chứccác quan trông coi và đình chỉ công việc. Một tháng sau, công việc vừađược tiếp tục thì Minh Mạng lâm bệnh và đột ngột băng hà vào tháng 1năm 1841. Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841)đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phươngchỉ huy gần 10.000 lính và thợ thi công tiếp công trình theo đúng họađồ của vua cha để lại. Ngày 20 tháng 8 năm 1841, thi hài vua Minh Mạngđược đưa vào chôn ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu, qua bàn tay lao độngvà óc sáng tạo của con người đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm,vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắcbởi giá trị tư tưởng.
  Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài1.750m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ đượcbố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700m, bắt đầutừ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dángmột người nằm nghỉ trong tư thế vô cùng thoải mái, đầu gối lên núi KimPhụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh nhưđôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.
  Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục songsong với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trìnhkiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóngthông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục. Mở đầu Thầnđạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn9m, rộng 12m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp vàcác đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân... được coi là tiêu biểucủa loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tàicủa vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổngphụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn. Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, látgạch Bát Tràng (sân rộng 45x45m), hai bên có hai hàng tượng quan vănvõ, voi ngựa bằng đá đứng chầu.
Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên PhụngThần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bàivăn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha. Mộtkhoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giácchoáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sântriều lễ.

  Hiển Đức Môn mở đầu cho khu vực tẩm điện, được giới hạn trongmột lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đấtvuông). Điện Sùng Ân nằm ở giữa được coi là trung tâm, chung quanh cóTả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinhchung quanh. Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoànghậu. Hoằng Trạch Môn là công trình kết thúc khu vực tẩm điện, mở ra mộtkhông gian của hoa lá và mây nước phía sau. Tất cả những công trìnhmang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắtđầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên. 17 bậc thềmđá Thanh đưa du khách vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơmmùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật(phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến MinhLâu - một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.
 Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăngthanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kếtthúc một thế giới hữu hạn; là “bộ ngực kiêu hãnh” của “con người” đượcví bởi hình dáng của khu lăng. Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải vềvũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, haitầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông. Hai bênMinh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn vàThành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi vềcõi vĩnh hằng.
Lăng Minh Mạng với kiến trúc mạng đậm chất Trung Hoa, tả Long hữu Hổ
HUE
  Một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành. Đâylà hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm”bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành - biểu tượng của mặttrời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biếnhóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.
  Bước qua cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33bậc tầng cấp đưa du khách vào thăm nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữatâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thànhhình tròn. Hình tròn này nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng,được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời nhưmuốn thể hiện khát vọng ôm choàng trái đất và ước muốn làm bá chủ vũtrụ của vị vua quá cố.
  Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứngnhau từng cặp một. Tiếc rằng thời gian và mưa gió đã tàn phá chúng nênngày nay du khách không còn trông thấy những cung điện, đình tạ xinhxắn nằm thấp thoáng giữa vòm cây, đêm ngày soi bóng xuống mặt hồ trongxanh. Đó là các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu TùngPhòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trênĐạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo TrấnThủy...
  Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệthuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên BiĐình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vôgiá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thếkỷ XIX, là nơi phô bày tri thức, trí tuệ và tình cảm của người xưa.
  Thăm lăng Minh Mạng, du khách ngỡ mình lạc vào không gian củahội họa, thi ca và triết học. Sự uy nghiêm, nét tĩnh tại của kiến trúcvà khung cảnh gợi tình của thiên nhiên, hoa cỏ thể hiện tính cáchnghiêm khắc, tri thức uyên bác và tâm hồn lãng mạn của nhà vua. Haimươi năm tại vị, Minh Mạng đã đem đến cho giang sơn Đại Nam sự vữngmạnh, cho vương nghiệp họ Nguyễn một tiền đồ mới. Và con người đó đãnằm xuống giữa chốn “thiên đường trần gian” đầy tiếng chim hót, hoađua... với sự thanh thản và mãn nguyện hoàn toàn.
Nguồn: Suu Tam
Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: ,

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn