Người Việt Nam nhận giải thưởng Eureka 2011

Thứ Năm, 29 tháng 9, 2011

Tiến sĩ Chu Hoàng Long là đồng tác giả người Việt duy nhất được nhận giải thưởng Eureka 2011 - giải thưởng khoa học uy tín và danh giá nhất Australia được trao cho công trình nghiên cứu “Mô hình lưu lượng dòng chảy đo lường lượng nước có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và lượng nước cần dự trữ để bảo vệ môi trường”. Nhân dịp này, TS. Chu Hoàng Long đã dành riêng cho PV một bài trả lời đầu tiên về thành công của công trình nghiên cứu.
“Đề tài đưa ra một công cụ hiện thực để xác định cách thức phân bổ tài nguyên nước một cách tối ưu”
 
Người Việt được nhận giải thưởng Eureka 2011, TS Chu Hoàng Long
Tháng 9 năm nay giải thưởng Eureka 2011 - giải thưởng khoa học uy tín và danh giá nhất Australia được trao cho công trình nghiên cứu “Mô hình lưu lượng dòng chảy đo lường lượng nước có thể sử dụng cho sản xuất nông nghiệp và lượng nước cần dự trữ để bảo vệ môi trường” của nhóm nghiên cứu: GS. R.Quentin Grafton (chủ trì), GS. Tom Kompas, TS. Chu Hoàng Long đến từ Đại học Quốc gia Australia (ANU) và GS. Michael Stewardson ( Đại học Melbourne).
Đại học Quốc gia Australia là đối tác lâu năm và thân thiết của Ipsard. Tiến sĩ Chu Hoàng Long là đồng tác giả người Việt duy nhất được nhận giải. Nhân dịp này, TS. Chu Hoàng Long đã dành riêng cho Agroinfo một bài trả lời đầu tiên về thành công của công trình nghiên cứu. Agroinfo xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc:
-Thưa TS. Chu Hoàng Long, được biết ông và đồng sự mới nhận được giải thưởng Eureka 2011, giải thưởng quan trọng nhất cho những người làm khoa học của Australia, xin ông cho biết cảm nhận của mình khi được nhận giải thưởng cao quý này?
Cảm nhận đầu tiên của tôi là vui mừng. Rất vui vì nỗ lực của cả nhóm nghiên cứu trong đó có bản thân mình được mọi người ghi nhận. Và sau đó, chắc cũng giống mọi người khi đón nhận tin vui, tôi nhớ đến những người thân, các bạn bè, đồng nghiệp ở Úc cũng như ở Việt Nam đã từng hỗ trợ, giúp đỡ mình rất nhiệt tình.
-Trên cơ sở nào nhóm nghiên cứu quyết định chọn lĩnh vực này để nghiên cứu thưa ông?
 Một trong những vấn đề liên quan đến quản lý tài nguyên nước là cân đối giữa nước dành cho dân sinh và nước dành cho môi trường. Ở hầu hết các hệ thống sông trên thế giới, rất nhiều đập lớn được xây dựng để trữ nước, và từ những con đập này, nước được phân bổ cho các hoạt động sản xuất và sinh hoạt.
Điều này, một phần giúp thỏa mãn nhu cầu sử dụng nước của con người, nhưng đồng thời cũng gây ra những tác động không nhỏ tới môi trường, ảnh hưởng tiêu cực tới cuộc sống của người dân: chế độ thủy văn bị đảo lộn, các hệ thống sông bị cạn kiệt, các loài thủy sản không còn môi trường phát triển, các vùng sinh thái bị ảnh hưởng v.v.
Trong nhiều trường hợp, các tác động về môi trường là khá lớn, đặc biệt trong những giai đoạn thời tiết không thuận lợi, ví dụ khô hạn kéo dài 8-10 năm. Vì vậy, các nhà hoạch định chính sách trong lĩnh vực tài nguyên nước cần có công cụ để xác định mức độ phân bổ nguồn nước một cách tối ưu và đề án nghiên cứu đã đưa ra một lời giải cho bài toán này.
-Đề tài được giải thưởng là đề tài nghiên cứu về phương án “Phân bố tài nguyên nước một cách tối ưu”, xin ông cho biết kết quả nghiên cứu của đề tài này và ý nghĩa thực tiễn ra sao?
Nhóm nghiên cứu đã phát triển một mô hình giúp xác định phân bổ nguồn nước thế nào để tối ưu hóa lợi ích của xã hội trong khi vẫn đảm bảo tính bền vững của môi trường. Mô hình này có thể áp dụng cho tất cả các hệ thống thủy lợi trên thế giới. Nếu muốn áp dụng vào khu vực nào, ta chỉ cần tính toán các tham số tương ứng với khu vực đó và đưa vào mô hình để tính ra cách phân bổ nguồn nước.
Để minh họa, mô hình được áp dụng cho một trường hợp cụ thể là vùng Murray Darling của Úc. Các phân tích cho thấy là việc ứng dụng kết quả của mô hình trong giai đoạn 2001-2009 tại vùng Murray Darling sẽ giúp tăng lợi ích ròng của xã hội lên khoảng từ 500 triệu đến 3 tỷ USD so với những gì đã thực sự đã diễn ra trong cùng thời gian.
TS. Chu Hoàng Long và một thành viên nhóm nghiên cứu

-Có một điều mà chúng ta đang rất quan tâm, đó là sự tác động của các nghiên cứu khoa học đối với các nhà hoạch định chính sách. Theo quan điểm của ông, đề tài nghiên cứu này sẽ có những tác động và hỗ trợ cho quá trình ra quyết định của các nhà hoạch định chính sách như thế nào?
Trường Kinh tế Quản trị Crawford của Đại học Quốc gia Úc, nơi tôi đang làm việc, là một trường chuyên tập trung vào hoạt động đào tạo và nghiên cứu ứng dụng cho chính sách. Đề tài này là một trong những hoạt động thuộc loại này vì kết quả nghiên cứu không bó hẹp trong phạm vi khoa học thuần túy mà còn nhằm tạo ra sự thay đổi trong chính sách quản lý nguồn nước và môi trường.
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài là đã đưa ra một công cụ hiện thực cho các nhà hoạch định chính sách để xác định cách thức phân bổ tài nguyên nước một cách tối ưu. Ngoài ra, kết quả của mô hình còn cho thấy cách thức phân bổ tài nguyên nước cho môi trường nên được thực hiện theo chu kỳ (pulse effects).
Nói cách khác, khi có thể kiểm soát lưu lượng dòng chảy của các con sông, con người nên tạo ra chế độ thủy văn (ví dụ khoảng cách giữa 2 đợt lũ) gần giống như chế độ thủy văn trước khi các đập chứa nước được xây dựng. Điều này góp phần khẳng định một thực tế là để tối ưu hóa lợi ích của chính mình, con người không nên đi ngược lại với tự nhiên.
-Xin ông cho biết thêm về ý kiến đánh giá của các nhà khoa học chuyên ngành đối với đề tài nghiên cứu này?
 Việc đề tài được trao giải thưởng Eureka đã phần nào nói nên sự đánh giá tích cực của các nhà khoa học về nghiên cứu này. Như lời ông Frank Howarth, Giám đốc của Australia Museum đánh giá điều quan trọng là mô hình này có ý nghĩa toàn cầu bởi nó có thể áp dụng cho tất cả các hệ thống sông trên thế giới. Đây cũng là mô hình đầu tiên trên thế giới giúp các nhà lãnh đạo và hoạch định chính sách có căn cứ khoa học để đưa ra quyết sách phân bố nguồn nước có lợi cho cả môi trường và kinh tế.
Toàn văn bài nghiên cứu được đăng tải trên tạp chí “Water Resource Research” số 47, năm 2011. Đây là một trong những tạp chí quan trọng nhất về tài nguyên nước. Các bài được công bố trên tạp chí này đều phải trải qua quá trình phản biện độc lập.
Theo nguyên tắc, nhóm nghiên cứu không được biết ai là người phản biện bài viết của mình nhưng chắc chắn họ đều là các chuyên gia tầm cỡ, nếu như không nói là hàng đầu thế giới. Ngay từ bản thảo đầu tiên, những nhà phản biện đều đã đánh giá cao về công trình này, chỉ gợi ý một số chỉnh sửa nhỏ để giúp người đọc dễ tiếp cận hơn với những khía cạnh kỹ thuật của bài viết.
-Ông có dự định thực hiện các nghiên cứu, ứng dụng khoa học và tham gia giảng dạy tại Việt Nam trong tương lai hay không?
 Ngoài nhu cầu cập nhật các tiến bộ mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu, tôi nghĩ một người làm khoa học cũng có nhu cầu phổ biến những tiến bộ này để góp phần nâng cao hiệu quả chung của xã hội. Vì vậy, tôi rất vui khi được tham gia vào công tác giảng dạy cũng như là các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học ở Việt Nam. Sắp tới, tôi sẽ tham gia giảng một khóa học về các phương pháp định lượng kinh tế ở trong nước.
Theo Agroinfo/Bee.net

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục:

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn