Trong động cơ xe gắn máy, hầu hết những bề mặt chi tiết máy tương đồng di chuyển nhanh hơn rất nhiều so với ở động cơ xe hơi và xe tải, theo truyền thống là vào khoảng 2 tới 10 lần, tùy thuộc vào số vòng tua khác nhau, hành trình piston, tốc độ piston.
Tất cả dầu nhớt động cơ đều được xếp loại bởi độ nhớt, liên quan tới dầu nhớt chảy như thế nào ở một nhiệt độ xác định (nhiệt độ đo đạc theo chuẩn là ở 40 C và 100 C). Chỉ số độ nhớt càng cao thì dầu càng đặc và sẽ càng chảy chậm hơn qua các khe máy. Nói chung, độ nhớt càng cao (còn gọi là độ nặng), dầu sẽ đặc hơn, và do đó dầu sẽ giảm thiểu được ma sát tốt hơn khi dầu nóng lên.
Dầu càng đặc thì càng giảm được rung chấn tốt hơn, nhưng ở cùng thời điểm thì dầu có thể là sẽ quá đặc (đặc biệt khi trời lạnh) hoặc là quá loãng (đặc biệt khi trời nóng) ảnh hưởng tới hiệu năng của bơm dầu. Dầu quá đặc (hoặc chứa các chuỗi polymer quá dài, chẳng hạn 10W60) có thể khiến thiếu hụt dầu do dầu quá đặc không thể chảy qua được các khe hở khít, chẳng hạn giữa xéc măng và xylanh. Vì vậy mà các nhà sản xuất động cơ chỉ định một loại độ nặng được khuyến cáo cho sản phẩm của họ, cái mà cân bằng giữa nhu cầu giảm thiểu ma sát với khả năng của bơm dầu để làm văng dầu vào các chi tiết máy khi máy lạnh hoặc nóng đảm bảo bôi trơn được toàn bộ các chi tiết máy.
Như đã biết, độ nhớt của dầu càng cao thì càng chống lại ma sát tốt hơn. Sự phá hỏng độ nhớt là hoạt động chia cắt các hyđrô cácbon trong dầu, làm giảm hiệu quả của khả năng chống lại ma sát của dầu. Nếu độ nhớt bị hỏng quá nhiều thì dầu sẽ đơn giản là không thể bảo vệ được bề mặt động cơ khỏi ma sát nữa. Sự phá hỏng độ nhớt là một trong 3 lý do đầu tiên mà chúng ta phải thay dầu. Hai lý do còn lại là các hạt lơ lửng hoặc chất gây ô nhiễm mà có thể gây mòn các bề mặt va chạm, và sự ôxi hóa hay còn gọi là sự hình thành cặn trong dầu.
- Bạn lái xe không thường xuyên (ít hơn một lần mỗi 4 ngày);
Ý kiến bạn đọc [ 0 ]
Ý kiến của bạn