Lịch sử thiết kế khí động học xe hơi

Thứ Sáu, 16 tháng 3, 2012


Chiếc xe nguyên mẫu Dymaxion 1933 đảm bảo sức cản thấp nhờ chỉ sử dụng một bánh phía sau cùng động cơ Ford V8 đặc giữa. Tuy nhiên, Dymaxion rất không ổn định.


Tatra T77 1934 có hệ số lực cản thấp 0,212.


Di sản nổi tiếng về tính khí động học của Saab là nguyên mẫu 92 có tên UrSaab. Hệ số lực cản khoảng 0,35.


Alfa Romeo Bat 7 (Berlineta Aerodinamica Tecnica) đời 1954 có hệ số lực cản dưới 0,2, khá ấn tượng những vẫn chưa đủ cho một thiết kế đặc biệt thế này.


Mercedes SLR 300 đời 1955 sử dụng hệ thống phanh khí giúp tăng hiệu quả của phanh tang trống và lớp lót bố ở tốc độ 290 km/h.


Alfa Romeo Giulia 1962 có hệ số lực cản tốt hơn cả một chiếc Porsche 911 cùng năm. Chiếc xe trông có vẻ hơi vuông vức, nhưng lại chứng tỏ được thành công về khí động học ở chi tiết.


BMW 3.0 CSL 1973 có cánh gió nhỏ gần nắp ca-pô, rồi cánh gió ở đuôi xe và trên mui...


Citroen CX 1974 sử dụng kính sau kiểu trũng và xuôi xuống dưới để giúp nó sạch nước mưa khi chạy.


Porsche 928 đời 1978 được cho là có lực cản gió thấp nhưng về cuối đời lại "mọc" thêm một số cánh gió.


Audi 100 đời 1982 cũng sở hữu lực cản gió thấp, trong đó nhờ thiết kế phẳng ở mọi nơi.


Lancia Thema 1984 dùng động cơ Ferrari V8 với tốc độ tối đa 241 km/h với cánh gió sau chỉnh điện tự động.


Porsche 959 đời 1986 sử dụng cánh gió cỡ lớn cùng nhiều hốc gió với khoảng sáng gầm chỉnh tự động nhằm giảm thiểu lực cản ở tốc độ cao. Xe có thể đạt tốc độ tối đa 321 km/h.

Theo nguồn

Xem thêm bài viết cùng chuyên mục: , , , , , , , ,

Ý kiến bạn đọc [ 0 ]


Ý kiến của bạn